[P1] Gian lận tài chính: (Case study: JVC)

 

Việc gian lận báo cáo tài chính để thu lợi bất chính là một điều không lạ lẫm đối với các doanh nghiệp đặc biệt là các doanh nghiệp niêm yết trên TTCK không chỉ ở Việt Nam mà cả trên thế giới.

Việc sử dụng các nghiệp vụ như:

– Ghi nhận doanh thu ảo nhờ bán sang các đối tượng liên quan, hoặc không thực sự có nhu cầu với các giấy tờ khống được lập lên. Bằng chứng là doanh thu, lợi nhuận tốt nhưng dòng tiền không có, đều phải thế chấp hàng hóa để vay nợ ngắn hạn đáp ứng vốn lưu động, sau đó tiếp tục lại vòng lẩn quẩn này để gia tăng doanh thu và lợi nhuận ảo.

– Tài trợ cho các công ty liên quan nhằm mục tiêu rút ruột

– Công ty thay đổi chính sách kế toán, ghi nhận doanh thu theo hướng tích cực, dễ dàng hơn, kéo giãn chi phí một cách chậm chạp hơn.

– Giao dịch giữa các bên liên quan ngày càng tăng.

Tất nhiên các hình thức về gian lận BCTC ngày càng phức tạp và muôn hình muôn vẻ, thường thì các nhà phân tích kể cả những nhà phân tích hàng đầu đều chỉ nhận ra khi sự việc đã rồi. Một phần vì những thủ thuật được sử dụng quá tinh vi luôn thay đổi phương thức mới và một phần vì sự tăng giá của cổ phiếu khiến lòng tham che mờ đi mất sự khôn ngoan thường có.

Hôm nay, “VietnamBankers – Đào tạo tài chính Doanh nghiệp” xin giới thiệu lại các bạn một cây gian lận BCTC điển hình của TTCK Việt Nam năm 2015 đó là Công ty cổ phần y tế Việt Nhật JVC. Một case điển hình của gian lận báo cáo tài chính mà nhắc lại phần lớn nhà đầu tư chúng ta đều ghi nhớ được đăng trên báo Đầu tư chứng khoán

(ĐTCK) Phòng bệnh sẽ dễ dàng hơn việc chữa bệnh, cũng giống như tránh những rủi ro dễ dàng hơn là xử lý chúng. “Cần phải hiểu công ty mà bạn đang sở hữu”, đó là bài học sâu sắc của các nhà đầu tư thành công. Bài viết mượn câu chuyện cổ phiếu JVC để chia sẻ về những dấu hiệu bất thường, có thể là khởi nguồn cho những gian lận tài chính được “ủ giấu” từ nội bộ.
Mọi lý thuyết đầu tư chỉ đo được một nửa

Lý thuyết Dow (cha đẻ là Charles H.Dow) là nền tảng để triển khai các công cụ phân tích kỹ thuật cho rằng, thị trường có tính hiệu quả nghĩa là thị giá phản ứng với toàn bộ thông tin hiện có. Lý thuyết này khá tương đồng với lý thuyết thị trường hiệu quả ở dạng vừa (semi – strong form) nói rằng, giá chứng khoán đã chịu tác động đầy đủ của thông tin công bố trong quá khứ cũng như thông tin vừa công bố xong; đối với thị trường hiệu quả ở dạng mạnh, giá chứng khoán sẽ phản ánh luôn cả các thông tin nội gián bên trong.

Tuy nhiên, lý thuyết hiệu quả lại khẳng định là không thể kiếm được lợi nhuận bằng cách căn cứ vào những thông tin đã biết, hay những hình thái biến động của giá cả trong quá khứ. Tùy độ mạnh yếu của thị trường mà nhà giao dịch sẽ lựa chọn các công cụ “nhạy cảm” với hành động của giá, để từ đó phát hiện ra các thông tin chưa được công bố rộng rãi nhằm mua vào sớm trước khi giá cổ phiếu diễn biến tăng hoặc bán ra trước khi có tin xấu, tức công cụ phát triển nhằm hạn chế sự bất cân xứng thông tin và kiếm lợi nhuận từ diễn biến của đà và xu hướng.

Nhiều người ví von rằng, nếu không có TTCK thì có lẽ cũng sẽ không tồn tại hai lý thuyết trên. Các doanh nghiệp kinh doanh tốt tiếp tục tăng trưởng sẽ mang lại sự thịnh vượng cho các cổ đông mà không cần TTCK. Warren Buffett sẽ toại nguyện với mong muốn “làm kẻ đi thang thang trên phố nếu thị trường thực sự hiệu quả”. Trên thực tế, TTCK ở các quốc gia phát triển rất hiệu quả nhưng giữa tính hiệu quả cao trong hầu hết các khoảng thời gian và hoàn toàn hiệu quả khác nhau như ngày và đêm.

Ðiều này tương tự đối với giá cổ phiếu niêm yết trên sàn chứng khoán. Các lý thuyết “cào bằng” về tính sẵn có của thông tin cũng như “chuyên môn” của tất cả các nhà đầu tư, cũng khác nhau như ngày và đêm vậy.

Có một thực tế là khi thị trường càng phát triển nhiều công cụ, độ “tinh vi” trong các gian lận cũng ngày càng tăng dần và qua mặt các nhà đầu tư trong một khoảng thời gian rất dài. Ðiều này đa phần là những kế hoạch được xây dựng bài bản, có tính chủ đích từ trước nhằm che đậy những điều tiêu cực và đạt được nhiều lợi ích. TTCK Việt Nam vốn đang được phân hạng vào dạng thị trường sơ khai, nhưng nhìn lại câu chuyện tại Công ty cổ phần Thiết bị Y tế Việt Nhật (JVC) cũng sẽ thấy vài bài học cách nhận diện một gian lận tài chính.

Bài học đầu tư nhìn từ gian lận tài chính tại JVC

[Phần 1]

Ngày 24/6/2015 thị trường chính thức có tin liên quan tới việc Cựu chủ tịch Công ty JVC (được miễn nhiễm ngày 21/6/2015) bị bắt tạm giam. Trước đó, từ ngày 10/6/2015 đã có “tin đồn” trên TTCK về vấn đề này, đưa giá cổ phiếu từ vùng quanh 22.000 đồng/cổ phiếu tới cuối tháng 6 còn khoảng 7.000 đồng/cổ phiếu và hiện tại đóng cửa ngày 17/06/2019 chỉ còn chưa tới 3.050 đồng.

Tổng tài sản giảm từ 1.600 tỷ đồng còn hơn 700 tỷ đồng đồng, lỗ lũy kế hơn 1.000 tỷ đồng tính tới cuối năm 2018. Nhìn lại một chặng đường gian nan của Công ty thì thấy, giá cổ phiếu đã phản ánh những điều tiêu cực trong hoạt động của Công ty “sau” hàng loạt sự kiện. Thị trường khá hiệu quả, nhưng cái giá phải trả cho cổ đông JVC là quá lớn.

Không chỉ nhà đầu tư, nếu nhìn diễn biến giá thị trường trong giai đoạn này dễ thấy, các trader cũng bị thiệt hại “không phanh” khi JVC sàn liên tục và không thể bán được. Sau tất cả, trường hợp này được phân loại vào dạng thua lỗ vĩnh viễn và không biết khi nào tình hình Công ty mới cải thiện được khi tới giờ này vẫn còn các vụ kiện cáo của các cổ đông.
Trong năm 2015, JVC đã xuất hiện nhiều dấu hiệu lạ như chậm nộp Báo cáo tài chính, Công ty sử dụng vốn phát hành cho cổ đông sai mục đích và nổi bật là khoản tiền mặt hơn 465 tỷ đồng, phải thu thương mại tăng mạnh từ hơn 400 tỷ lên hơn 615 tỷ đồng không có thuyết minh cụ thể. Một nhà đầu tư cá nhân bình thường cũng có thể nhìn ra sự bất hợp lý giữa các khoản mục này:

+ Công ty sử dụng vốn sai mục đích để đóng thuế và trả nợ ngân hàng, tức là việc phát hành cho cổ đông nhằm mục đích bù đắp những nghĩa vụ trước đó không được công khai.

+ Thông thường các khoản tiền trong doanh nghiệp đều sẽ được sắp xếp cho các mục đích kinh tế trong tương lai, nếu tiền từ hoạt động kinh doanh dồi dào thường sẽ ở dưới dạng tiền gửi ngắn hạn trong Ngân hàng. Với số dư tiền mặt khổng lồ như vậy việc kiểm đếm, bảo quản và rủi ro có thể sẽ rất lớn, vậy tại sao lại có sự việc này?

Bản chất sự việc và cách thức thực hiện bên trong chỉ có Ban lãnh đạo là người hiểu nhất. Trong quá trình che lấp, chắp vá Báo cáo tài chính của mình, kiểm toán có xác nhận về hàng loạt giao dịch chui giữa JVC và các công ty liên quan mà chưa được HÐQT hay đại hội đồng cổ đông thông qua. JVC đã thực hiện các giao dịch bảo lãnh, bán hàng, mua hàng, tạm ứng, thanh toán hộ và đầu tư góp vốn vào các dự án liên kết thiết bị y tế.
Nhược điểm của Bảng cân đối kế toán là một tấm ảnh chụp thời điểm ghi nhận, nên bằng các thủ thuật tài chính, Công ty có thể làm đẹp số liệu dễ dàng. Khoản tiền phát hành cho cổ đông đã được sử dụng hết cho các nghĩa vụ phát sinh trong quá khứ, cần có một khoản tiền khác bù đắp vào, tất nhiên là Công ty sẽ không thể phát hành thêm, nếu vay nợ trực tiếp từ Ngân hàng thì cũng bị “lộ”, nên JVC “đi” thông qua các công ty “không liên quan” để bảo lãnh các công ty này vay vốn Ngân hàng. Tài sản đảm bảo có thể chính là cổ phiếu của JVC được tài trợ bởi một bên thứ ba khác.
Hợp đồng kinh tế lập ra để làm cơ sở giải ngân cũng không phải là việc khó, khi thành lập thêm các bên thứ tư, thứ năm… Các đối tượng này được gọi chung là SPE (đối tượng có mục đích đặc biệt). Khoản tiền này sau khi được sử dụng cho mục đích che giấu lỗ sẽ được trả lại cho ngân hàng ngay khi chốt sổ sách.

Xem trước Phần 2 tại đây: